Thủ Ấn Thường Xuất Hiện Trong Các Tượng Phật

Khi chiêm bái tranh hoặc tượng Phật tại các chùa hoặc tu viện, chúng ta thường thấy hình tượng của Đức Phật được khắc họa với các tư thế tay rất đặc biệt vừa giống như là một cử chỉ tự nhiên, vừa như thể hiện dấu hiệu của Phật tính.

Đó chính là thủ ấn Phật (hay còn gọi là Mudra trong tiếng Phạn).

THỦ ẤN LÀ GÌ?

Thủ ấn (mudrā) hay còn gọi là ấn thủ, ấn tướng.

Thủ ấn Phật chính là dấu ấn thể hiện được khắc họa tư thế tay đặc biệt thường thể hiện ở bàn tay và ngón tay.

Đây vừa là dấu hiệu của tính chất Phật. Thủ ấn xuất hiện tại Ấn Độ giáo và Phật giáo tượng trưng cho tinh thần tràn đầy năng lượng được sử dụng trong hình tượng và thực hành tâm linh của các tôn giáo tại Ấn Độ.

Trong đạo Phật, các Đức Phật thường được khắc họa tư thế tay đặc biệt, thường là các ấn nơi ngón tay và mỗi biểu tượng sẽ mang một ý nghĩa đặc biệt riêng.

Ngoài ra, thủ ấn còn được hiểu là các tư thế chính mà Phật dùng trong đời sống hằng ngày hay thuần túy hơn chính là các tư thế của Phật.

Và thủ ấn được dùng để miêu tả, trình bày hình tượng của Đức Phật.

CÁC THỦ ẤN MÀ ĐỨC PHẬT THỂ HIỆN CÓ Ý NGHĨA NHƯ THẾ NÀO?

Dưới đây Bùa Phật Thái xin chia sẽ 7 Thủ ấn quan trọng thường được thể hiện phổ biến khi khắc họa trong tranh và tượng Phật nhất:

1. Giáo hóa thủ ấn (Vitarka Mudra)

 

5754C897-A646-46B5-9992-BBCC764D5CF9

Giáo hóa thủ ấn hay còn gọi là Ấn giáo hóa, tượng trưng cho giai đoạn thuyết giảng Kinh Phật trong cuộc đời của Ngài.

Án thủ này được gọi là Biện minh ấn, tượng trưng cho việc Đức Phật kêu gọi mọi người giải quyết vấn đề, hiện tượng qua tư duy và biện luận.

Biểu tượng Giáo hóa thủ ấn, tay phải Phật chỉ lên, bàn tay trái chỉ xuống, hai lòng bàn tay đều hướng lên phía trước.

Tay phải để ngang vai, tay trang đặt ngang bụng.

Mỗi bàn tay, ngón trỏ và ngón cái chạm nhau tạo thành hình tròn tượng trưng cho dòng năng lượng liên tục luân chuyển.

Ấn giáo hóa cũng có dạng khác là ngón trỏ và ngón cái co lại, các ngón khác duỗi thẳng, lòng bàn tay trái hướng lên trên còn tay phải hướng xuống.

2. Thiền thủ ấn (Dhyana Mudra)

 

Bức tượng Phật ở thiền thủ ấn khi hai tay đặt trong lòng, mặt sau của bàn tay phải dựa vào lòng bàn tay trái, hai ngón trỏ chạm nhẹ vào nhau.

Đức Phật dùng thủ ấn này để tập trung tư tưởng cao độ, biểu thị cho trí tuệ đã đạt cảnh giới giác ngộ, thoát khỏi thế giới hiện tượng và tâm thức phân biệt.

Thủ ấn này đã giúp Đức Phật chạm tới sự giác ngộ trong lần thiền cuối cùng dưới gốc cây bồ đề.

3. Chuyển pháp luân thủ ấn (Dharmachakra Mudra)3B3A46A3-3E36-4C0F-88F7-19E9BF178AB1Sau khi Bồ Tát thành đạo tại cội cây Bồ Đề, Ngài thân hành đến vườn Lộc Uyển xứ Isipatana, gần Benares (Baranasi ngày nay) và giảng giải bài kinh Chuyển Pháp Luân (Dhammcakkappavattana sutta) và đây là bài pháp đầu tiên được Đức Phật thuyết giảng trong cuộc đời 45 năm hoằng pháp của ngài bài pháp này được thuyến giảng đến năm vị Kiều Trần Như (Aññakoṇḍañña).

Tư thế thủ ấn này cả hai bàn tay ngón cái và ngón trỏ cong lại, chạm nhẹ vào nhau, tạo thành một hình tròn.

Hai cánh tay xếp lại và đưa lên khoảng tầm ngực.

Lòng bàn tay phải xoay ra phía trước, thẳng đứng, mu bàn tay trái xoay ra ngoài, nằm ngang, hay để nghiêng.

Những ngón tay còn lại của bàn tay trái chạm nhẹ vào lòng bàn tay phải.

4. Thí nguyện thủ ấn ( Varada Mudra)

Cánh tay phải của bức tượng Phật ở tư thế thả lỏng xuống dọc theo cơ thể, lòng bàn tay mở ra phía trước, những ngón tay duỗi ra.

Còn cánh tay tay trái cong ở khuỷu tay, bàn tay hướng về phía người nhìn.

Năm ngón tay mở rộng đại diện cho năm sự hoàn hảo: hào phóng, đạo đức, kiên nhẫn, nỗ lực và tập trung.

Thủ ấn này biểu thị sự dâng hiến, chào đón, từ thiện, cho đi, từ bi và chân thành.

Đây cũng là ấn quyết sự hoàn thành ước nguyện chuyên tâm giải thoát nhân loại của Đức Phật.

5. Trì bình thủ ấn (Patahattha Mudra)

Thủ ấn này vị trí hai bàn tay chồng lên nhau tay phải để trên tay trái hai bàn tay duỗi ra để nâng bình bát.

Trong hoạt động hằng ngày của Đức Phật chia làm năm thời đó chính là buổi sáng, buổi trưa, canh đầu, canh giữa và canh cuối.

Buổi sáng đó chính là lúc ngài trì bình hóa duyên tế độ những người hữu duyên và thọ thực.

Đây là tư thế thủ ấn trì bình mà các nhà nghệ thuật điêu khắc sử dụng để mô tả về đời sống thường nhật của Ngài.

6. Vô úy thủ ấn (Abhaya Mudra)

1D1102E3-3DFC-47B0-BB57-B973473E4109

 

Tư thế của Vô úy thủ ấn cho thấy Đức Phật với bàn tay phải giơ lên ngang tầm ngực, lòng bàn tay hướng ra ngoài và các ngón tay hướng lên trên, trong khi cánh tay trái để xuôi theo tư thế tọa thiền (đối với tượng ngồi) tay trái duỗi hướng xuống đất (đối với tượng đứng).

Có nhiều cách giải thích khác nhau về ý nghĩa, nguồn gốc của thủ ấn này, dựa theo sử liệu về cuộc đời đức Phật thì sau khi đạt được giác ngộ và khi Đức Phật bị con voi dữ tấn công Ngài đã sử dụng thủ ấn này.

Abhaya là cử chỉ của sự không sợ hãi. Khi bàn tay Phật thể hiện thủ ấn này cho thấy Đức Phật không hề sợ hãi trước một kẻ thù hay nghịch cảnh.

Cũng như thể hiện rằng Đức Phật ngay sau khi đạt được giác ngộ đã vượt thoát trên mọi nỗi sợ hãi đau khổ của thế gian.

7. Xúc địa thủ ấn (Bhumistarsa Mudra)

Đức phật có tư thế xúc địa thủ ấn luôn được mô tả trong tư thế ngồi kiết già hoặc bán già, với bàn tay trái đặt trên đùi, lòng bàn tay hướng lên trên như trong ấn Thiền Định còn tay phải duỗi xuống, lòng bàn tay xoay vào trong, mu bàn tay đưa ra ngoài, các ngón tay hướng xuống đất.

Bhumisparsha, có nghĩa là “chạm vào Trái Đất”, hay gọi Trái Đất để chứng kiến. Thủ ấn này dựa theo sự tích ghi trong Chú giải Phật sử.

Khi Ngài ngồi hành thiền trong đêm rằm tháng Vesak, Ma vương (Mara) xuất hiện quấy nhiễu Ngài.

Ma vương có ý định đuổi Ngài ra khỏi chỗ ngồi dưới cội bồ đề và hỏi: “Ai là chứng nhân để biết chỗ ngồi này là của Ngài?” Đức Phật từ tư thế thiền định, đặt bàn tay phải chạm đất và tuyên bố: “Mặt đất này là chứng nhân, đã chứng kiến qua nhiều kiếp, ta đã hoàn thiện hạnh Bố thí ba-la-mật, hạnh Trì giới ba-la-mật, và các ba-la-mật khác.”

Ngay lúc đó, mặt đất rung chuyển, với âm thanh vang dội khắp vũ trụ.

Ma vương run sợ, thất bại, và rút lui.Mudra này đại diện cho khoảnh khắc khi Đức Phật Thích Ca giác ngộ bên dưới cây bồ đề, là ấn quyết mà đức Thích Ca gọi Trái Đất chứng minh mình đạt Phật quả và cũng là dấu hiệu của sự không lay chuyển nơi Đạo vô Thượng Bồ Đề.

Các bạn có thể tham khảo các Tượng Phật tại: https://buaphatthai.com/tuong-tho/tuong-phat/

Hotline/zalo 0816811316
Amulet Giúp Cuộc Sống Tốt Đẹp Hơn!!!